Bài của Tường Dung
( Để tưởng nhớ thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên,
nhân ngày giỗ thứ 15 của anh ).
-tháng Tám, 2008-
Khi gọi Minh Thủy để nhắc về buổi hẹn đi ăn
trưa vào ngày Chúa nhật hôm sau, tôi nghe giọng Thủy thật nhẹ nhàng ở bên kia:
“Dung à, mày đi với tao thăm mộ anh Nhiên trước khi đi ăn một chút được không?
hôm qua là giỗ của anh ấy đó, chắc lâu lắm rồi mày đâu có đi đến đó hả nhỏ?”.
Tôi giật mình như vừa được nhắc nhớ đến một người bạn thân, một kỷ niệm quen
thuộc, rất gần gủi, rất tự nhiên mà mình đã có và vô tình quên khuấy đi mất. Ừ
nhỉ, đời sống bên này với những bận rộn, hối hả từng ngày, đôi khi có ai tình
cờ nhắc đến những người bạn nào đó đã có một thời thân thiết, giao thiệp qua
lại với nhau thật lâu bỗng dưng “mất tích” không gặp nữa vì hoàn cảnh, công
việc hoặc dọn đi xa, tôi vẫn mừng rỡ, háo hức, chờ được nghe thêm tin tức hoặc
gặp lại. Huống chi là anh Nhiên, vừa là người anh, vừa là người bạn đời quá cố
của đứa bạn thân thiết nhất của tôi từ dạo còn đi học cho đến giờ. Trong phút
chốc, hình ảnh cao gầy, lỏng khỏng với hai cánh tay dài quá khổ hay quơ quơ để
diển tả và gương mặt cứ…nhăn nhó, bậm môi, mỗi khi nói chuyện với tôi của anh
hiện ra, rõ ràng trong trí nhớ. Anh Nhiên và tôi đã có một thời gian thân thiết
và cũng có một thời gian…thù nhau quá sức. Nhớ tới mối quan hệ rất ngộ nghĩnh,
đầy “hỉ, nộ, ái, ố” của chúng tôi trong chuỗi ngày xa xưa ấy, tôi thật không
biết phải vui hay buồn. Thời gian quả thật đáng sợ, mới đó mà anh mất đã 15 năm
rồi. Lần này đến thăm anh, chắc chắn tôi có rất nhiều điều để nhắc nhớ.
Khi Thủy bắt đầu
quẹo xe vào cổng của nghĩa trang Peek Family, cái âm thanh náo động ngoài đường
phố bổng dưng chìm dần, rồi tắt hẳn. Trước mặt tôi là con đường nhỏ vòng theo
những vòm cây rợp bóng mát, thinh lặng, nhẹ nhàng… Mặt đất là những thảm cỏ
xanh mượt mà được chăm sóc cẩn thận. Ngồi cạnh Thủy đang chầm chậm lái xe đến
chỗ an nghỉ của anh Nhiên, tôi thong dong ngắm nhìn một khoảng không gian an
bình, thoát tục đang trải rộng quanh mình, chỉ có tiếng gió rì rào trên các
tầng cây, tiếng xào xạc của những chiếc lá khô đang uốn mình trên mặt đất khi
bánh xe nghiến lên. Không khí yên lành, thanh tịnh dễ khiến lòng người lắng
đọng. Những lo buồn, ray rức của đời sống, của những ngày trước kia đã có bỗng
dưng chìm xuống, ngủ yên. Tôi như lịm người đi với cái cảm xúc lạ lùng chợt ùa
tới, cái cảm giác mà từ lâu tôi không có được… bình yên và thanh thản. Không
thấy bóng người lai vãng, buổi trưa cuối tuần thế mà vắng vẻ quá! Dường như
những người nằm đây đã bị đời lãng quên? Lâu lắm rồi từ ngày tiễn anh ra đến
phần mộ trong nghĩa trang này, tôi chưa bao giờ có dịp để trở lại viếng thăm,
kể ra là cũng quá tệ! Nhưng biết làm sao hơn? thôi thì nhờ Thủy hôm nay cho tôi
cơ hội để được thăm lại người mà tôi đã từng xem như một người anh và có lúc đã
xem nhau như “kẻ thù” (như tôi và anh đã từng nghĩ về nhau sau một trận cải vả
kịch liệt).
Tiếng Thủy kéo
tôi trở về với thực tại :
-“Chịu khó đi bộ
một chút nha nhỏ, mộ anh Nhiên ở trong kia, không cho xe vô được.”.
Tôi cười:
-“Ừ thì có dịp
đi excercice một chút, có sao đâu!”.
Tôi xuống xe với
một tâm trạng nao nức, kích động như sắp sửa đi gặp lại người quen đã lâu
rồi…thất lạc. Hai đứa chia nhau cầm bó hoa, nhang và hộp quẹt bắt đầu lần bước
tìm bia mộ anh Nhiên. Nghĩa trang ở đây không choáng đầy mắt với những ngôi mộ
xây cất đủ hình đủ kiểu, chằng chịt như ở Việt Nam. Các ngôi mộ ở Mỹ đều giống như
nhau. Một khoảng đất cùng kích thước, nằm san sát, có hàng lối rõ ràng, tấm bia
được đặt nằm phẳng phiu ngay trên mặt đất, vì thế cũng khó mà định hướng mộ của
thân nhân mình nếu không biết trước.
Thủy nhắc tôi:
-“Coi chừng đạp
lên mộ người ta đó nha, có khi mộ cũ quá rồi mày không thấy rõ cái mặt bia
đâu.”
-“Ừ, tao biết
mà.”
Tôi vừa đi vừa
nhẩm đọc thử tên tuổi của những bia mộ gần bước chân mình nhất, có nhiều người
chết thật trẻ, nằm bên cạnh những ông bà cụ tuổi thật cao. Nắng chói chan trên
từng giòng chữ, trên những tấm ảnh đã phai màu với thời gian.
Chúng tôi dừng
lại ở dưới một bóng cây với những tàn cao, to rộng, đầy bóng mát. Thủy nói:
-“Đây rồi, mộ
của anh Nhiên may là được nằm ở chổ này, có bóng mát lại cũng gần chỗ có nước,
thoáng và lý tưởng, chứ mộ của ông Mai Thảo ở đàng kia, trơ trụi, không có cây
cối gì cả nắng nóng cả ngày, mày ơi!”
Tôi rảo mắt nhìn
quanh, cố nhớ lại hình ảnh của mười mấy năm về trước. Cũng nơi này, gia đình,
bạn bè, người thân của anh Nhiên có mặt đông đủ lúc hạ huyệt, những nhà văn,
nhà thơ, nghệ sĩ, mà lần đầu tiên tôi mới gặp mặt đã đứng ở đây đọc điếu văn,
chia buồn, nhỏ lệ xót thương. Chưa bao giờ tôi được thấy nhiều nhân vật nổi
tiếng cùng một lúc như thế. Tôi nhớ là mình đã rất xúc động khi nghe ông Phạm
Duy với mái tóc bạc trắng ngậm ngùi, từ tốn nhắc đến những kỷ niệm với anh
Nhiên và những bài thơ mà ông đã phổ nhạc. Tôi nhớ ca sĩ Việt Dũng đứng ở góc
kia và một số người nữa nhìn tôi với đôi mắt hiếu kỳ khi thấy Thủy cứ gục đầu
vào vai tôi khóc nức nở. Chắc họ thắc mắc không biết tôi là ai và có quan hệ gì
với gia đình người quá cố. Và nơi đây, mẹ anh là người cuối cùng sau khi xác
thân anh đã thực sự được đặt yên dưới lòng đất lạnh, đã khóc than, hối tiếc về
sự ra đi của đứa con mà đến bây giờ trước sự thương tiếc, quý mến của thân hữu,
của mọi người đối với anh, bà mới nhận ra con mình quả là một “thiên tài” đích
thực. Nơi đây, chỗ này đã chứng kiến giờ phút cuối cùng “nghĩa tử nghĩa tận”
của anh đấy mà. Những cành hoa đã thay nhau rơi xuống, phủ đầy trên nắp áo
quan, những giọt lệ đã cạn khô trên mắt người đưa tiễn. Anh đã thực sự đi vào
cõi thiên thu. Nơi mà anh đã cảm nghiệm được và nói đến rất nhiều từ những bài
thơ đầu tiên. Tôi nhớ sau tang lễ của anh, khi mọi người lần lượt ra về, tôi đã
đứng trước mộ anh một hồi lâu, nhớ đến bài thơ “Thiên thu” nằm ở trang cuối
cùng trong tập “Thiên tai”, một trong những bài thơ mà tôi rất thích ngay lần
đầu đọc thơ anh, bấy giờ sao mà thấm thía:
“Sao thiên thu không là xa nhau?
nên mưa xưa còn giăng ngang hồn sầu
tôi đứng như cây cột đèn gẫy gập
và một con đường cúp điện rất lâu.
Sao thiên thu không là chôn sâu?
nên nắng xưa còn hôn mái tóc nhầu
tôi đứng như xe tang ngừng ngập
và một họ hàng khăn trắng buồn đau…
…………………………………….
Sao thiên thu không là thiên thu
Nên những người yêu là những ngôi mồ
tôi đứng một mình trong nghĩa địa
và chắc không đành quên khổ đau!”
Quả thật, sau mọi linh đình đưa tiễn, anh đã ở lại một mình trong nghĩa trang
này với những khổ đau, nghiệt ngã của cuộc đời đã được chôn vùi dưới lòng huyệt
lạnh, đã cùng anh đi vào tận chốn thiên thu!
Tôi lặng lẽ cắm hoa vào cái bình đã có sẵn ở trước mộ, Thủy đi lấy nước ở một
cái vòi cách đấy vài mươi bước và trở về đổ đầy vào bình hoa, tôi ngạc nhiên
nhìn Thủy tưới phần nước còn lại lên trên mặt tấm bia, nhưng ngay sau đó lòng
lại xúc động, bùi ngùi khi thấy Thủy dùng cuộn giấy mang theo, từ tốn lau sạch
đi những bụi cát đang phủ lờ mờ trên đó. Bia mộ anh là một phiến đá làm bằng
lacquer đen bóng, sau những vệt lau của Thủy đã lại sáng như gương. Tấm ảnh của
anh hiện ra thật rõ ràng ở trên góc trái cùng với phần đầu của bài thơ “Giữa
trần gian tuyệt vọng” anh viết từ năm 1972 nằm ngay bên cạnh. Tôi ngồi xuống,
đọc từng giòng thơ đã được viết với nét chữ khắc thật đẹp với lòng trân trọng
pha lẫn xót xa:
“Ta phải khổ cho đời ta phải khổ
Phải ê chề cho tóc bạc với thời gian
Phải đau theo từng hớp rượu tàn
Phải khép mắt sớm hơn giờ thiên định
(Vì thượng đế từ lâu kiêu hãnh
Cầm trong tay sinh tử muôn loài.
Tình ta vừa gánh nặng thấu xương vai
Thì em hỡi ngai trời ta đạp xuống)
Cũng khá thân và lại rất thích thơ anh Nhiên,
nên hầu hết các bài thơ của anh tôi đều biết và thuộc lòng (hoặc ít nhất cũng
vài đoạn trong mỗi bài). Riêng bài này, khi tình cờ nghe lại, trích trong bài
viết “Tìm ở sao trời” của Hoàng Mai Đạt đăng trong tạp chí Văn Học và được đọc
một lần trên đài radio Little Saigon hồi tháng 6, tôi đã ngậm ngùi, chợt nhớ
ra: anh Nhiên đã mất lâu lắm rồi! Nghe nhắc đến bài thơ đã buồn, giờ trông
thấy, đọc lại càng buồn và thấm thía hơn! Anh làm thế nào mà có thể khẳng định
rằng cuộc đời mình là “phải khổ” “phải ê chề” và nhất là “phải khép mắt sớm hơn
giờ thiên định” từ năm mới vừa 20 tuổi?
Thủy vỗ nhẹ vai
tôi, đưa mấy nén nhang và dặn dò:
“Mày khấn xong
rồi cắm cho anh Nhiên vài cây, còn lại chừa để lát nữa đem cắm ở những ngôi mộ
khác nha.”
Từ ngày qua Mỹ,
thực sự tôi cũng rất ít, hay nói hẳn ra là không có dịp nào để vào nghĩa trang
thăm mộ người chết như thế này, trừ những lần đưa tiễn, cầu nguyện ở nhà quàng
trước khi hạ huyệt, nên có Thủy nhắc nhở cũng đỡ phải lúng túng.
“Khấn gì đây?
Liệu anh có còn quanh quẩn đâu đây để nghe tôi nói không?” Tôi với anh từ lúc
mới quen biết đến khi anh mất đi, có lúc đã chuyện trò vui vẻ, đã “cải vả” thật
nhiều, có lúc lại không thèm nhìn mặt hoặc nói với nhau lời nào. Hơn nữa, tôi
đã không gặp anh ít ra cũng gần ba năm trước khi anh mất, anh giận tôi đã không
cho tin tức gì của Thủy, tôi giận anh đã đối xử với đứa bạn thân của tôi và là
vợ con anh quá…hờ hững, vô tình! Và như thế chúng tôi cứ như là “ân đoạn nghĩa
tuyệt” từ đó. Không ngờ, chỉ một thời gian sau, anh đã tự rời bỏ cuộc đời quá
sớm và dễ dàng như những bài thơ anh đã viết vậy!
Tôi cầm mấy nén
nhang, mắt đăm đăm nhìn vào di ảnh của anh, thì thầm những lời không chuẩn bị
mà vẫn nói thật suông sẽ như là đang có anh trước mặt:
“Anh Nhiên à,
chắc rằng ở chốn “miên trường, vĩnh cửu” nào đó, anh đã quên hết mọi thống khổ,
lụy phiền của nhân gian, đã được hưởng sự an vui, cực lạc đời đời rồi. Mong anh
cũng quên và tha thứ cho những gì anh em mình đã hiểu lầm, giận ghét nhau trong
quá khứ. Hãy ngủ yên và thanh thản trong“cõi thơ” trên chốn thiên đàng của anh.
Hãy phò trợ cho Thủy và các con anh, giữ gìn, nâng đỡ chúng để chúng khôn lớn,
vững chải, có sức mạnh, niềm tin mà vượt qua mọi thử thách của cuộc sống, đừng
để chúng vấp ngã, trầy sướt và đau đớn nha anh.”
Mắt tôi bỗng
nhòa đi với ý tưởng là tôi đã nói được điều mình muốn nói với anh mà trước kia
đã không có dịp. Lời xin lỗi rất chân thành. Dù gì tôi, Thủy và anh cũng có cái
“duyên” với nhau trong một khoảng đời dù không dài lắm nhưng cũng không thể gọi
là ngắn ngủi. Và cứ thế, những hình ảnh xa xưa bỗng quay về trong ký ức thật
nhanh như những đoạn phim rời vừa được ráp nối.
Tôi nhớ lần đầu
tiên, lúc anh vào lớp tôi để giới thiệu tập thơ “Thiên Tai”. Tôi đã ngạc nhiên
vì không biết tại sao một nhân vật…tầm thường của trường mình, người vẫn có
tiếng là “gàn”, thậm chí còn bị cho là “khùng” như anh mà lại biết…làm thơ và
lại còn…dám in thơ đem bán nữa. Vì tò mò, tôi đã lật xem thử vài bài trong tập
thơ và không ngờ bị lôi cuốn ngay với “Bài thấm mệt đầu tiên”, “Nên sầu khổ dịu
dàng”, “Linh mục”, “Nên thời gian ấy ngùi trông”… tôi đọc say sưa, đọc mãi cho
đến bài cuối cùng “Thiên Thu”, và như người vừa nhận ra mình đang cầm một “báu
vật” trên tay, không thể nào để mất, tôi mua ngay một quyển dù lúc đó giá tiền
của tập thơ không phải là nhỏ đối với tuổi học trò lớp mười của tôi. Tôi đem về
nhà đọc đi đọc lại mãi những bài thơ của anh, bắt đầu thán phục về “tài làm
thơ”, về sự liên tưởng, lý luận để bày tỏ, diễn đạt tâm tình một cách thật đơn
sơ, nhẹ nhàng mà vô cùng sâu sắc qua việc sử dụng từ ngữ mới lạ, độc đáo của
anh. Những hình ảnh rất dung dị, bình thường của đời sống qua thơ anh bỗng trở
thành đẹp đẽ, ý nghĩa hơn. Tôi thật sự ngạc nhiên và thích thú với sự so sánh
của anh trong “Bài thấm mệt đầu tiên”:
“Tình mới lớn phải
không em rất thích?
Cách tập tành
nào cũng thật dễ thương
Thuở đầu đời
chú bé soi gương
Và mê mải dĩ
nhiên làm lạ.
Tình mới lớn
phải không em rất lạ?
Cách tập tành
nào cũng ngượng như nhau
Thuở đầu đời
chú bé ôm phao
Và nhút nhát
dĩ nhiên ngộp nước.
Tình mới lớn
phải không em rất mỏng?
Cách tập tành
nào cũng dễ hư hao
Thuở đầu đời
cầm đủa thấp cao
Và nâng chén,
dĩ nhiên, đổ vỡ…”
Cũng nhớ, trong tập “Thiên Tai” anh viết chỉ
có một câu thôi mà đã làm tôi sững sờ và có ấn tượng mạnh mẽ hơn về con người
của anh là:
“Tôi không đủ
kiên nhẫn để đọc hết một quyển truyện dài, vì truyện dài không thể đọc vội vã.
Người chắc cũng không đủ kiên nhẫn để yêu tôi vì tôi còn dễ chán hơn truyện
dài. Tôi là một kịch bản trường thiên!”
Anh đã tự thu
mình lại, khiêm nhường đi, chọn cho mình con đường cam phận, chịu thua thiệt,
hay dùng đó để xác định rõ về bản tính, về chủ năng của chính mình, một “thiên
tài” không dễ ai hiểu biết và cảm thông?
Từ đó, anh được
tôi xem như là một nhà thơ trong danh sách “thần tượng” của thơ với ngôn ngữ
mới lạ. Sau, nhờ chị Duyên, nhân vật trong bài thơ “ Khúc tình buồn”, được Phạm
Duy phổ nhạc thành bài hát “Thà như giọt mưa”, tôi lại có cái “duyên văn nghệ”
được anh cho mượn phụ bản “Duyên” trong tập thơ “Thiên Tai” để làm bìa tập thơ
“Tuyên ngôn 15”cho chính tôi và Ngọc Yến, một cô bạn cùng lớp. Thủy bị tôi rủ
đi theo gặp anh mấy lần để lấy và trả tập bản kẻm, thì lại mắc vào một cái
duyên khác “duyên nợ ba sinh” với anh sau này. Thật tình, lúc đó anh làm tôi
rất cảm động vì thấy “nhà thơ lớn” mà sao lại dễ dãi với “đàn em nhỏ” như tôi
mượn gì là được nấy. (Chắc tại nghe tôi khoe là “em nuôi” của chị Duyên?). Về
sau, tôi còn…khám phá ra do gia đình có quan hệ dây mơ rể má thế nào đó, mẹ của
anh gọi ba tôi bằng cậu, tức là tôi tới vai “dì” của anh Nhiên lận. Chao ôi,
thật là oai ghê!
Nhưng thú thật,
anh có một cái tật mà tôi rất…kỵ là mỗi khi lỡ nói gì trái ý là anh chau mày,
bậm môi, đôi mắt cúi gầm xuống, hai bàn tay chập vào nhau chống trước trán, lầm
lì không nói gì hết cho đến lúc…bỏ đi. Có lúc tức quá, tôi bảo Thủy: “Ông này
cứ làm như đang đóng kịch vậy đó mầy ơi!...thấy ghét!”. Thủy rất hiền, nhút
nhát, ít nói, nên cô nàng chỉ cười lặng lẽ, không ý kiến. Cũng vì tính tình như
vậy nên thư tình, quà cáp gì của anh Nhiên gửi cho Thủy sau này cũng một tay
tôi chuyển giúp. Cứ tan trường, hai đứa đi bộ về nhà chỉ cần nhác thấy bóng
chiếc Honda của anh Nhiên sắp lạng tới là Thủy đẩy tôi ra phía ngoài để nó đi
bên trong, tránh nói chuyện hay nhận thư, quà từ anh. Vừa sợ vừa muốn cho xong,
nên tôi cứ nhận đại rồi đưa qua cho Thủy ngay sau khi anh đã phóng xe đi mất.
Thủy vừa nhận vừa phản đối nên tôi cũng không biết rõ cô nàng có…chịu chàng hay
là không. Nhưng tôi thì thấy vui lắm vì nghĩ rằng mình đang làm chứng nhân cho
một mối tình cũng lãng mạng quá đấy chứ. Cũng nhờ vậy mà có lần tôi được “ăn
theo” với Thủy, lần đó, anh Nhiên rà xe cạnh tôi dúi nhanh một cái bọc và nói
trước khi phóng xe đi: “Thuốc…bổ óc đó, một cho Dung, một cho Thủy, ráng uống
để mà thức học bài thi”. Tôi đưa cho Thủy bọc thuốc, cảm động một chút, vui vui
một chút, coi vậy mà anh chàng cũng…biết điệu quá đó chứ! Lúc ấy, anh Nhiên đã
bắt đầu thân thiết với tôi, thỉnh thoảng cứ chạy xe đến nhà tôi đưa thư, kể lể
mọi chuyện…Có một hôm, đang ngồi trong nhà tự dưng thấy anh chạy xe đạp xồng
xộc tới, vừa dựng xe, vừa thở hào hển kể cho tôi nghe chuyện “gây gổ” giữa anh
với anh T., em của chị Duyên, mới vừa xảy ra ở quán cà phê gần nhà tôi. Câu
chuyện bắt đầu từ bài viết “Hột mè” của anh đăng trên báo Văn thì phải? Anh
nói: “Thằng T. nói anh viết bài này “chửi” chị nó độc quá, nên nó tức đòi đánh
anh…”. Tôi có đọc qua bài đó nên cười an ủi: “Anh viết cũng nặng tay lắm chứ
bộ. Anh T. tức là đúng rồi. Thôi ai biểu viết mà chọc giận người ta làm chi.
Chửi người khác mà anh vui sao?” Trước khi ra về anh còn nói như thật: “Lần
sau, anh không có nhịn đâu.”. Tôi cười vì biết tính anh nói thì…dữ nhưng chẳng
làm gì hại ai cả. Chắc cũng vì chuyện này mà thời gian sau anh đã viết “Bài tạ
lỗi cùng người” có những câu thật cảm động:
“Năm năm trời… ta làm
tên quái đản
Cầu danh trên
nước mắt người tình
Năm năm trời
có nhục có vinh
Có chua,
chát, ngọt, bùi, cay, đắng…
Có hai mái
đầu chia nhau thù oán
Có thằng ta
trút nạn xuống vai em!
Năm năm trời
…có một tên Duyên
Ta ca tụng
rồi chính ta bôi lọ
Tình ta đẹp
nhưng tính ta còn nít nhỏ
Nên lỗi lầm
đã đục màu sông
Nếu em còn
thương mến tuổi mười lăm
Xin nuốt hận
mĩm môi cười xí xóa
Hồn ta đẹp
nhưng đời ta thảm quá
Nên tị hiềm
nhen nhúm giữa ngây thơ
Nếu em còn
chút đỉnh mộng mơ
Xin rộng
lượng thứ dung người lỡ dại.”
Tôi dạo ấy cũng…hơi lo dùm cho Thủy, Thủy học
rất giỏi, giỏi nhất trường, xinh xắn, tài năng toàn diện, ai cũng quí mến, còn
cái ông nhà thơ này sao ngày nào cũng đón đường, tỏ tình, tỏ ý với Thủy mà làm
thơ thì cứ thấy ca tụng hết cô này đến cô khác. Vậy thì thương thiệt hay giả
đây?
Cho nên, đến khi Thủy năn nỉ nhờ tôi mang trả lại hết quà cáp, thư từ cho anh Nhiên,
tôi đã…ngây thơ thương bạn, nhận lời mà có biết đâu tự mình đi đón nhận phong
ba bão tố. Sau khi biết tôi mang mọi thứ đi trả giùm cho Thủy, anh Nhiên đã
mắng tôi và đổ thừa tại tôi…xúi Thủy tuyệt tình với anh. Tôi tức điên lên và cãi
với anh một trận tơi bời hoa lá. Anh giận tôi đến độ còn dọa sẽ viết một bài…chửi
tôi trên báo để cho tôi biết tay anh. (May là chắc anh nghĩ lại, thấy “tội” của
tôi còn nhẹ hoặc biết là không có tội gì hết, nên không có bài nào nêu đích
danh tôi để…trả thù, trừ một câu trong bài thơ “Kẻ tự đóng đinh tim” đã ví tôi
là “quỷ sứ” mà sau này qua Thủy tôi mới biết. Đó là câu: “Lỡ yêu tín đồ phải
chấp nhận gian truân. Phải muối mặt giao du cùng quỷ sứ” Chứ nếu không chắc tôi
cũng đã được anh đưa vào…văn học sử bằng một ngỏ…tối tăm rồi!). Từ đó, tôi với
anh Nhiên bắt đầu một mối thù…không tên, và cứ mỗi khi Thủy nhắc tới anh Nhiên
là tôi tha hồ mà…đay nghiến. Lúc này, tôi đã thực sự giận ghét anh Nhiên và
muốn cho Thủy đừng thèm “mềm lòng” với cái anh chàng nghệ sĩ tài hoa mà gàn dở
này nữa.
Nhưng khi đọc bài thơ“Thục Nữ”, là bài đầu tiên anh Nhiên viết cho Thủy, với hình
ảnh Thủy trong thơ và Thủy ngoài đời là một, rất thật, rất dễ nhận ra với tóc
bính, nón lá, hài nhung, mảnh mai, nhẹ nhàng, vô cùng thục nữ đã làm tôi xúc
động:
“Chiều em đi hai hàng
bính tóc
Gieo xuống đôi vai nhỏ thiệt thà
Còn bao nhiêu dấu hài khuê các
Sao đành gieo xuống phố đời ta?
Chiều em đi nón lá che nghiêng
Sao đành che mất nụ cười duyên?
Mây vẫn chưa về gom bớt nắng
Trần ai đông lắm kẻ si tình.
Chiều em đi trong nắng trời tây
Bóng đổ lênh đênh – bóng đổ gầy
Bóng đổ gầy như ta ốm yếu
Đeo đẳng hoài theo tình không may
Chiều em đi bước ngại bước ngùng
Như sợ làm đau ngọn cỏ nhung
Như sợ bay lên từng đóa bụi
Sao khách tài hoa nát cả lòng?
Chiều em vui quá thuở vàng son
Ta bỗng lang thang khắp ngả đường
Ta đi cho chết thời oanh liệt
Cho thấu một trời đau đớn riêng!”
Bài “Giữa trần gian tuyệt vọng” là bài thứ hai anh đã viết gửi cho Thủy với
những lời bày tỏ chân tình, nhưng đã khiến cho Thủy. giận hờn, ấm ức nhờ tôi
mang trả lại thư từ, quà tặng của anh và đã là nguyên nhân khiến tôi phải …rước
họa vào thân. Đó là những câu:
“Ta vẫn nhớ trưa nào
em ngồi hát
Ta vẫn thèm
hôn lên mắt tiểu thơ buồn
Ta vẫn thèm
ăn năn những lúc đón đường
(Em khó chịu…
mà thư nào em cũng nhận)
Sau khi biết vì mình mà tôi và anh Nhiên đã
không thèm nhìn mặt nhau nữa, thì Thủy ít nhắc nhở tới anh hơn và lặng thinh
mỗi lần nghe tôi kể tội anh đã mắng nhiếc, sỉ vã tôi như thế nào. Anh Nhiên thì
phải tự động tìm cách để…nối nhịp cầu tri âm với Thủy một mình vì không còn cái
nhịp cầu mang tên…Dung nữa.
Mãi cho đến một buổi chiều kia, tan học về, Thủy báo cho tôi biết: “ Ông Hải (tôi
và Thủy vẫn quen gọi anh bằng tên thật là Hải, dù anh đã nổi tiếng và mọi người
luôn gọi anh bằng tên Nguyễn Tất Nhiên) nói chiều thứ Sáu hàng tuần có chương
trình giới thiệu nhạc mới ở radio, thứ Sáu này nhớ đón nghe vì sẽ có bài thơ
“Hai năm tình lận đận” ổng làm cho tao được Phạm Duy phổ nhạc, hát lần đầu.”
Tôi nhìn Thủy ngạc nhiên, thầm nghỉ: “Ông này coi vậy mà cũng…khôn, biết cách
giải mả “độc đáo” thiệt, như thế này thì Thủy có…chạy đàng trời.” Tôi tuy còn
ấm ức vì…mối hận lòng, “oan âm Thị Kính” vẫn còn đầy ứ mỗi khi nhớ tới, nhưng
cũng thấy vui và hãnh diện lây với bạn. “À há, như vậy mi đã bắt đầu được đi
vào văn học sử rồi đó nha”. Cũng nhờ vậy, chiều thứ Sáu đó, tôi đã được thưởng
thức trọn vẹn bài hát “Hai năm tình lận đận” với âm điệu nhẹ nhàng, buồn rầu
đến tội nghiệp qua tiếng hát dễ thương, nồng nàn của Duy Quang:
“Hai năm tình lận đận
Hai đứa cùng xanh xao
Mùa đông hai đứa lạnh
Cùng thở dài như nhau.
Em không còn thắt bính
Nuôi dưỡng thời ngây thơ
Anh không còn lýnh quýnh
Giữa sân trường trao thư
Hai năm tình lận đận
Hai đứa đành xa nhau
Em vẫn còn mắt liếc
Anh vẫn còn nôn nao
Ngoài đường em bước chậm
Trong quán chiều anh ngóng cổ cao.
Em bây giờ có lẽ
Toan tính chuyện lọc lừa
Anh bây giờ có lẽ
Xin làm người tình thua.
…………………………
Hai năm tình lận đận
Em đã già hơn xưa!”
Tôi đã bật cười khi nghe Thủy kể lại, hai câu
cuối của bài thơ này đã làm…động lòng Lâm Diễm, một đứa bạn cùng lớp với chúng
tôi, khi nó đọc thấy bài thơ đăng trên báo trước khi được phổ nhạc. Diễm vào
lớp báo ngay với Thủy: “Thủy ơi, ông Hải làm thơ chê mày… già”.
Sau khi nghe bài hát này tôi thầm nghĩ, Thủy đã không thể thoát khỏi lưới tình nữa
rồi. Thủy vốn yêu thích thơ văn, cũng như tôi và số đông bạn bè cùng lứa lúc
ấy, rất hâm mộ thơ Nguyễn Tất Nhiên, Thủy đã được làm “nàng thơ” của thi sĩ,
nay lại được dòng nhạc của Phạm Duy đưa hình ảnh “thắt bính” của mình chắp cánh
bay xa. Còn gì hơn! Nhưng chúng tôi không có thời giờ để hỏi han những chuyện
vớ vẫn nào khác nữa. Tất cả thời gian còn lại là học thi, thi Tú Tài II. Tôi
quên bẳng đi chuyện tình của anh Nhiên và Thủy để lo học.
Rồi đến lúc lên Sài gòn vào đại học, tôi và Thủy lại cùng ở trọ với nhau, chắc Thủy
nghĩ là tôi còn giận anh Nhiên lắm, vì mỗi lần Thủy nhắc tới anh là cứ nghe tôi
châm chọc: “ông ấy là ai? tưởng mình là nhà thơ lớn…ngon lắm hả?”. Không nhớ
tôi có nói gì nặng hơn nữa không mà Thủy càng ngần ngại, dè dặt tránh nói về
anh trước mặt tôi. Tôi học bên Văn Khoa, Thủy học ở Đại học Vạn Hạnh, bên kia
cầu Trương Minh Giảng. Bởi thế, bài “Chở em đi học trường đêm” có đoạn:
“Chở em đi học mưa,
chiều
Tóc hai đứa ủ đôi điều xót xa
Mưa thánh thót, mưa ngân nga
(hình như có bão băng qua thị thành)
……………………………………
Đèo nhau qua đoạn đời này
Cầu Trương Minh Giảng nghe đầy hoàng hôn...”
tôi cứ tưởng là viết cho Thủy, nhưng sau này
khi hỏi lại, Thủy nói: “ổng viết cho…con nhỏ khác mày ơi!”. Tôi giật mình và
cảm thấy bất mãn vì nghĩ rằng các ông văn thi sĩ chắc không chỉ có bốn ngăn
tim, nên mới có thể chứa đựng được một lúc nhiều hình bóng đến như vậy! Bài thơ
“Khởi tự mê cuồng” anh viết năm 74, mới là bài anh viết cho Thủy, nên vẫn thấy
bóng dáng Thủy đâu đó, mặc dù lúc này Thủy và anh đã không còn liên lạc với
nhau.
“Trời mưa, không lớn
lắm
nhưng đủ ướt đôi đầu!
Tình yêu, không đáng lắm
nhưng đủ làm… tiêu nhau!
Đường người, vui có chăng
ta trùng điệp u buồn
nhớ ai mà tóc rụng
ngóng ai muốn đục tròng.
…………………………
Đường người, đau có chăng
em tính còn ham chơi
lưng ngoan dòng tóc bính
môi trinh non thích cười
Chiều chiều hay giỡn nắng
tình trôi kệ tình trôi…”
Sau 30 tháng 4 năm 75, chúng tôi chia tay
nhau, Thủy tiếp tục học và về làm việc ở Biên Hòa. Tôi thì lưu lạc đến Long
Thành làm nghề “gõ đầu trẻ”. Công việc bận rộn nên chúng tôi cũng liên lạc ít
hơn. Thủy và tôi chỉ thỉnh thoảng gặp nhau trong những ngày cuối tuần khi tôi
trở về nhà.
Tôi không biết rõ mối quan hệ của anh và Thủy bắt đầu lại từ lúc nào, mãi cho đến
khoảng giữa năm 78, một hôm, Thủy đột ngột đến tìm tôi vào buổi trưa, chúng tôi
kéo nhau lên lầu nói chuyện. Thủy ngần ngại, rào đón một lúc lâu mới báo tin là
sắp đám hỏi với anh Nhiên. Thấy tôi lặng thinh, Thủy hỏi: “Mày bất ngờ không?...thất
vọng không?”. Tôi biết Thủy vẫn còn nhớ “mối thù” của tôi với anh Nhiên lúc
trước, nên cười và lắc đầu: “Chuyện cũ, chuyện nít nhỏ, tao quên rồi. Đừng nhắc
tới nữa. Vậy là “Ngày mai trong đám xuân xanh ấy, có kẻ theo chồng bỏ cuộc
chơi” rồi. Mày có cần gì tới tao không?” Thủy thở phào nhẹ nhỏm: “Có chứ, mời
mày tới dự đám hỏi, nhớ tới sớm sớm để phụ tao nha nhỏ.” Không hiểu sao lúc đó,
tôi vừa mừng lại vừa lo cho Thủy, Thủy dịu dàng, yếu đuối và sống “kín cổng cao
tường” trong mái ấm của đại gia đình từ bé, còn anh Nhiên, đời sống luôn quay
quắt với dư luận khắc nghiệt và lang bạt kỳ hồ, như trong thơ anh vẫn thường
khẳng định: “ Em có một đời rong xanh mơ đá. Tôi có ngàn năm say khước hận
thù”(Bài thấm mệt đầu tiên) hay “Chim trong tổ biết chi đời giông bão. Em con
cưng nào biết tuổi lưu đày” và “Em gia giáo phải lòng anh lang bạt” (trích Uyên
Ương). Liệu Thủy sẽ được bình yên, hạnh phúc hay sẽ lao đao với sóng gió cuộc
đời?
Thời gian này, bài “Nụ hôn đầu” với những câu:
“Gian truân lắm mới hôn người
Chiếc hôn tình lớn đem đời theo nhau.
………………………………
Hôn em chấn động đầu đời.
Chiếc hôn tình lớn kiếp người đôi giây.”
và “Cuối tháng Tám”, không hiểu đã cảm nhận
được điều gì mà cả hai bài thơ của anh viết cho Thủy đầy những lời ăn năn,
thống hối:
“Khổ đau oằn nặng sinh
thời
yêu ai tôi chỉ có lời thở than,
có môi hôn trộm vội vàng
khiến em hoảng hốt trong cơn tình đầu
nụ cười giữ được bao lâu
nhân sinh là một dòng sầu miên man
sông dài rồi cũng chia phân
tình bao nhiêu lớn cũng tàn phai thôi
Tôi đam mê siết thân người
hay đâu tảng đá đeo đời trăm năm.
Em gầy guộc, em mong manh
Em chưa đủ sức long đong cùng chàng
Em ngây thơ đến rỡ ràng
Em chưa đủ lượng khoan hồng thứ dung
Em tội nghiệp, em tủi thân
Em chưa tự chủ kíp nhăn lệ tràn
Lôi người té sấp gian nan
Lỗi tôi, ừ đó, muôn phần lỗi tôi.”
Đến ngày đám hỏi của Thủy và anh Nhiên, tôi
mới biết chỉ có tôi là đứa bạn duy nhất được Thủy mời trong đám đông của gia
đình hai họ.
Lần gặp lại đầu tiên sau mấy năm không nhìn mặt nhau ở đám hỏi, được coi như là
một nhịp cầu nối lại mối quan hệ giữa tôi và anh Nhiên. Anh tỏ vẻ quí mến tôi hơn
và thỉnh thoảng hay ghé nhà tôi để hỏi thăm hoặc nhắn tin cho Thủy
Có một chuyện khiến tôi cảm động và nhớ mãi là một buổi trưa vừa từ trường về nhà
trọ sau mấy giờ dạy, thay chiếc áo dài xong thì nghe tiếng gõ cửa và sau đó là
giọng của Thảo, chị bạn cùng nhà gọi : “Dung ơi, có ai kiếm kìa.”. Nhà chúng tôi
ở là một căn biệt thự khá lớn của một chị bạn dạy cùng trường, mấy ngày trước
30 tháng 4, chợ Long Thành bị pháo kích, sập gần hết, nhà chị cạnh đó nên cũng
bị một quả ngay vào giữa, căn nhà như bị cắt ra làm đôi. Phần phía trước chỉ
còn cái mặt tiền và khung cửa sắt là nguyên vẹn, hai phòng phía sau, sâu vào
trong, nơi không bị hề hấn gì, là nơi mà nhóm giáo viên chúng tôi chia nhau ở,
được nối bằng một khoảnh đất nhỏ mà trước đó dùng để trồng hoa kiểng và một cánh
cửa lớn bằng gỗ. Tôi vội chạy lên và ngạc nhiên khi thấy anh Nhiên đứng sừng
sững ngay khung cửa với chiếc xe đạp bên cạnh. Anh nhìn tôi đang ngó anh trân
trối, nhe răng cười hỏi: “Sao? không mời vô à?” Tôi vẫn chưa hết ngạc nhiên vì
sự xuất hiện bất ngờ của anh. “Ủa, anh đi đâu đây? Sao biết Dung ở chỗ này?”
Anh dựng xe sang bên, một tay giở nón, một tay lau mồ hôi trán và nói: “Nghe
Thủy nói Dung dạy học ở trường Long Thành, nhà anh có rẫy cũng gần đây, sẵn đi
ngang ghé vô trường hỏi, họ nói Dung mới đi về, rồi chỉ nhà cho anh đó chứ.”
Tôi mời anh vô trong uống nước và giới thiệu với chị Thảo: “Anh này là thi sĩ
Nguyễn Tất Nhiên đó!”. Chị Thảo tròn xoe mắt nhìn anh: “Vậy hả? Trời ơi, nghe
tiếng quá chừng mà bây giờ mới gặp đó nha.”. Anh Nhiên chỉ cười và không nói
năng gì. Hỏi thăm nhau được một chút, anh từ giã ra về còn hỏi tôi: “Dung có
cần nhắn gì về nhà không? anh ghé qua nhắn cho”. Bỗng dưng tôi nhớ tới chục ký
gạo vừa đươc lãnh sáng nay ở trường theo tiêu chuẫn công nhân viên nhà nước, và
tôi đã làm một việc vô cùng tệ hại mà sau này lúc kể cho Thủy nghe hoặc nhớ tới,
tôi vẫn còn áy náy và rất xấu hổ là : “Anh Hải chở dùm bao gạo này ghé qua nhà
đưa cho má Dung được hông?”. Tôi thấy đôi mày anh cau lại, trán nhăn nhăn, môi
mím chặt, nhưng cũng gật đầu: “Ừ, thì để anh chở cho”. Tôi giúp anh khuân bọc
gạo lên để phía sau “bọoc ba ga”, cột giây cẩn thận, cám ơn anh, chào tạm biệt
và… tỉnh bơ, mãi cho đến khi đưa anh ra tới cửa ngoài thấy anh bắt đầu gò lưng
trên chiếc xe đạp tôi mới giật mình. Tiếng chị Thảo phía sau tôi vang lên: “Trời
ơi, mày ác quá trời đi người ta tới thăm mà còn bắt chở bao gạo về dùm nữa,
nặng lắm đó, một chút lên tới dốc 47 làm sao ổng lên nỗi.!” (Dốc 47 là cái dốc
rất cao ở gần ngã ba Thái Lan giữa đường đi Biên Hòa và Long Thành). Tôi mới
bắt đầu hối hận và thấy mình…vô duyên quá đỗi!
Cứ tưởng mọi việc sẽ được tiến hành êm đẹp như đã định, Thủy và anh Nhiên sẽ làm
đám cưới cuối năm đó. Nhưng không ngờ, bao ngang trái cuộc đời không hẹn mà cứ
đến đe dọa cho mối tình của hai người, lý do từ việc có nhiều dư luận về anh Nhiên
đã đến tai gia đình Thủy. Lúc này, tôi đã đổi về Biên Hòa để đi học lại, nên
Thủy thường gặp tôi sau những giờ làm việc, tâm sự, thở than về những ngăn cấm
của gia đình và đôi khi nhờ tôi làm “bình phong” để Thủy và anh Nhiên hẹn hò
nhau.
Bài “1978 ở Việt Nam”
chắc anh đã viết trong lúc tâm trạng u uất, chán chường về sự đổi thay của xã
hội lẫn hoàn cảnh riêng tư của chính mình:
“Phu thê nếu phải nợ
rồi
Thì tôi đâu ngại ngõ lời yêu em
Như con chim mới tập chuyền
Bâng khuâng gấm lụa thánh hiền em ra
Mặt trời rực rỡ phương xa
Ở đây hạnh phúc chỉ là đau thương.
…………………………………
Phu thê nếu đã buộc ràng
Thì xin nhẫn nhục cưu mang vợ chồng
Tôi, quanh năm sống hoang đàng
Cũng xin nhỏ lệ hoàn lương khóc tình!
Rồi đến bài thơ “Uyên Ương” với những câu thật não lòng:
“Có những chiều ta muốn hôn em, rồi khóc
Mùa bình an nào chờ đợi uyên ương?
Nhớ hôm xưa em mảnh khảnh tan trường
Hương trinh khiết ngây ngây chiều nắng lụa.
………………………………..
Nhớ hôm xưa em bình minh thiếu nữ
Môi vô tư chưa bợn nhuốm hơi người
Tay măng tơ chưa vọc nước dòng đời
Tóc bính thảnh thơi chưa phiền khói thuốc
Ta lẽo đẽo theo tình ê ẩm bước
Để chiều về nhẹ thấm thía gian nan!
Nhớ hôm xưa em mơ mộng nhẹ nhàng
Hay hát khẻ đôi bài tình man mác.
Chim trong tổ biết chi đời giông bão
Em con cưng nào biết buổi lưu đày…”
Nhưng rốt cuộc, Thủy đã quyết định cùng với
gia đình anh Nhiên rời khỏi Việt Nam cuối năm 78, sau những tháng ngày dài nỗi
trôi cùng vận nước và cả vận mệnh của chính mình. Một năm sau, tôi mới nhận
được lá thư đầu tiên có kèm theo hai tấm hình của Thủy và anh Nhiên chụp ở vườn
Luxembourg
trong mùa thu, đầy lá vàng, lãng mạn, tuyệt đẹp, mới biết là hai người đã định
cư ở Pháp. Nhờ địa chỉ đó nên tháng tư năm 81, sang đến đảo Ga Lăng, Indo, tôi
đã liên lạc được với Thủy. Không ngờ, Thủy vẫn nhớ và gửi quyển “ Thơ Nguyễn
Tất Nhiên” gồm những bài từ tập “Thiên Tai” và những bài thơ sáng tác từ 1970
đến 1980, đã được ấn hành lại ở Pháp, làm quà sinh nhật cho tôi trên đảo. Tập
thơ này quả là một món quà vô cùng quí báu lúc bấy giờ đối với bọn chúng tôi
gồm một đám thanh niên cùng mê thơ Nguyễn Tất Nhiên, cả mấy tháng trời, đêm nào
cũng mang ra vừa đọc vừa bàn luận, thật sôi nổi, hào hứng.
Đến tháng mười, tôi được các em bảo lãnh sang Mỹ, về ở Missouri. Anh Nhiên và Thủy cũng đã dọn về Cali từ tháng tư.
Chúng tôi thư từ, điện thoại thăm hỏi nhau nhưng vẫn chưa gặp mặt, Thủy và tôi cùng
bận rộn với đời sống mới mà lại ở xa nhau, nên ngay cả đám cưới tôi tổ chức ở
Utah, Thủy cũng không có dịp sang dự. Cho mãi đến hôm tôi sinh cô con gái đầu
lòng khoảng một tuần, thì Thủy gọi phone báo tin là sẽ đi xe bus Greyhound sang
thăm tôi. Đó là lần đầu tiên tôi gặp lại bạn sau 6 năm xa cách. Thủy không thay
đổi tí nào, vẫn dáng dấp học trò, vẫn gầy gầy, nhỏ nhắn, gương mặt, nụ cười vẫn
hệt như thời còn đi học, mặc dù bây giờ đã có thêm hai chú nhóc, Tí Anh đã ba
tuổi và Tí Em sắp lên hai, lúc nào cũng quấn bên chân mẹ. Trong dịp này, Thủy
đã kể cho tôi nghe hết về cuộc sống từ ngày rời VN, với những ngày đầu vất vả
nhưng hạnh phúc ở Pháp, đến những khi sóng gió vì đời sống nghệ sĩ lang bạt,
bất đắc chí của anh Nhiên ở Mỹ, cả đến những cay đắng mà Thủy phải chịu đựng để
chu toàn cái hình ảnh của “một người vợ, một người đàn bà thuần túy Á Đông, chỉ
biết phục tùng chồng và tuyệt đối không nên để ý hoặc thắc mắc gì về những quan
hệ công việc bên ngoài của chồng.” mà anh Nhiên vẫn luôn nhắc nhở Thủy mỗi khi
có chuyện bất đồng. Tôi ngạc nhiên và không ngờ đứa bạn với bề ngoài yếu đuối
như Thủy mà có thể chịu đựng được ngần ấy thứ đau khổ, trắc trở trong cuộc đời
làm vợ của nhà thơ. Thủy nói lần này, sau khi trở về, hai người sẽ quyết định
chia tay. Thoạt tiên, tôi hơi ngỡ ngàng, nhưng sau đó, khi nhìn thấy hai đứa bé
đang hồn nhiên, quấn quýt bên Thủy, tôi giận anh Nhiên quá sức, tại sao có mái
gia đình đẹp đẽ, hạnh phúc thế này mà anh không chịu gìn giữ? Tôi muốn an ủi
Thủy, nhưng an ủi thế nào khi tôi cũng không biết phải xử trí làm sao trong
hoàn cảnh ấy. Thủy định là sẽ ở chơi với tôi đến hai tuần nhưng chỉ một tuần
Thủy đã đổi vé về lại Cali,
sau những cú phone dồn dập của anh Nhiên. Mấy hôm sau, Thủy gọi để báo tin là
sóng gió đã tạm dừng, dù không biết là chàng sẽ giữ lời hứa đến bao lâu. Tôi
mừng cho Thủy và thầm cầu nguyện cho cái tổ ấm của Thủy sẽ bình yên, sáng sủa
hơn sau cơn bão tố vừa qua.
Năm 86, gia đình tôi dọn về Cali, căn nhà nhỏ của
chúng tôi ở Gardena,
thỉnh thoảng đón tiếp Thủy và hai cậu con trai đến chơi, nhưng tuyệt nhiên không
bao giờ thấy anh Nhiên đi cùng. Thủy tâm sự: “Tao chỉ là một người đàn bà bình
thường, mơ có một mái ấm gia đình rất bình thường như những người đàn bà khác,
nhưng với tao sao nó khó khăn, xa vời quá mày ơi!”. Nghe Thủy nói, tôi càng
thấm thía hơn ý nghĩa của cái thuyết “Hồng nhan bạc phận”, của “Trời xanh quen
thói má hồng đánh ghen”, càng thấy xót xa và thương bạn hơn. Có lúc, tôi đã
phải nói với Thủy: “Tao thì chỉ biết “yêu thơ” thôi chứ không có “can đảm” để
“yêu nhà thơ” như mày, sao mà khổ quá đi!”
Từ lúc sang Mỹ dù đã xuất bản được tập thơ “Chuông mơ” (1987), “Tâm Dung” (1989)
và cả việc sáng tác nhạc để ra đời băng nhạc “Tình khúc Nguyễn Tất Nhiên” nữa,
nhưng anh vẫn là một người “bất đắc chí”, cay đắng với cuộc đời, hờ hững với
trách nhiệm gia đình và đó có phải là nguyên nhân khiến anh trở thành một con
người khác, một hình ảnh bất toàn hơn trong đời sống gia đình chăng?
Có lẽ vì biết quá nhiều về những bất hạnh từ đầu của hai chữ “nợ duyên” giữa anh
Nhiên và Thủy, nên tôi đã đứng về phía bạn khi Thủy dứt khoát đoạn tuyệt với
những khổ đau, oan nghiệt của quá khứ, hiện tại và có thể sẽ mãi còn tiếp diễn
ở tương lai để chọn một cuộc sống bình an hơn cho Thủy và nhất là hai đứa con,
nên tôi đã lặng thinh khi anh Nhiên gọi tôi để hỏi về tung tích của Thủy. Và đó
là lần thứ hai, tôi lại bị anh mắng nhiếc thậm tệ, bằng những lời nhắn nặng nề
trên máy answering. Lúc đó, tôi nghĩ, cứ để cho anh nghiền ngẫm, rồi tỉnh thức,
nhận ra và biết quí báu những gì mình đã có, ân cần với đời sống và trách nhiệm
hơn để có thể định hướng lại tương lai của mình. Nhưng không ngờ, anh đã quá
yếu đuối và dễ tuyệt vọng đến độ phải chọn sự kết thúc bi thảm đến vậy! Lúc
nghe tin anh mất, là lúc tôi đang trong giờ lunch ở một hãng điện tử. Sửng sốt,
kinh ngạc… tôi nuốt không trôi miếng cơm còn đang nhai dở trong miệng. Tôi muốn
về nhà ngay để gọi cho Thủy…
Thời gian qua nhanh như cơn gió thoảng, mới đó mà đã mười mấy năm. Cuộc sống vẫn
nối tiếp với những định mệnh đã được an bày. Các con anh nay đã khôn lớn, trưởng
thành. Thủy đã tìm được bờ bến bình yên và đang có một đời sống hôn nhân hạnh
phúc, điều mà trước kia tưởng chừng sẽ không bao giờ có được.
Giờ đây, dưới những tàn cây, bóng mát trong nghĩa trang này, tôi đến thăm mộ anh,
thắp nén hương lòng hoài niệm về một thời quá khứ buồn nhiều hơn vui giữa chúng
tôi, dù không biết rằng những việc làm trước kia đối với anh là đúng hay sai,
nhưng tôi cũng muốn nói với anh lời tạ lỗi. Có những điều khi còn sống chúng ta
chưa có dịp phân trần, tỏ bày cho hết thì đến lúc lìa đời, cũng xin được có cơ
hội để hòa giải, thứ tha. Chỉ tiếc một điều là những câu thơ anh viết lúc còn
trẻ, khi đọc lên cứ tưởng sẽ là “lá bùa hộ mạng” cho anh, đã không nâng đỡ, vực
dậy anh trước khi anh quyết định đi về một đời sống khác:
“Nếu vì em mà thiên
tài chán sống
thì cũng vì em ta ngại bước xa đời”.
nguồn ticon