* Bài của ĐẶNG TIẾN
Văn thơ miền Nam 1954-1975
được gọi là nền văn học bất hạnh. Vì nó đã bị xuyên tạc, tuyên án, thiêu hủy và
bôi xóa ; các tác giả đã bị tù đày, đọa đày và lưu đày. Trong số đó, có
nhà thơ Vũ Hữu Định (1942-1981), từ 1972 đã xem mình như một người lỡ vận :
Ta đã hát khúc hát đời lỡ
vận
Hát âm u trong đêm tối một mình (tr. 65)
Hát âm u trong đêm tối một mình (tr. 65)
Vũ Hữu Định tên thật là Lê
Quang Trung, sinh tại Thừa Thiên, sống nhiều nơi ở Tây Nguyên, lập gia đình tại
Đà Nẵng và định cư tại đây. Làm thơ từ thập niên 1960, đăng báo rải rác. Năm
1975, đi học tập cải tạo một thời gian ngắn vì là cán bộ Xây dựng Nông thôn,
rồi làm công nhân Nhà Đèn. Đầu năm 1981, tại làng An Hải, Đà Nẵng, anh qua đời
vì say rượu té từ lầu một, cái chết còn gây nghi vấn. Sinh thời, anh không có
tác phẩm xuất bản. Đến 1996 bạn bè mới đóng góp để nhà xuất bản Trẻ ấn hành thi
tập Còn một chút gì để nhớ gồm 45 bài, lấy tên từ một bài thơ được Phạm Duy phổ
nhạc và thịnh hành một thời :
Phố núi cao phố núi đầy
sương,
Phố núi cây xanh trời thấp thật buồn (tr. 5)
Phố núi cây xanh trời thấp thật buồn (tr. 5)
Hiện nay, sau khi tái bản thơ
Nguyễn Bắc Sơn, Linh Phương, truyện ngắn Y Uyên, nhóm Thư Ấn Quán của Trần Hoài
Thư, Phạm Văn Nhàn đã sưu tầm và in lại thơ Vũ Hữu Định để tặng biếu, không
bán, trong tinh thần bảo lưu và truyền bá di sản văn học miền Nam. Chúng tôi đã
có lần đề cao thiện chí này ; nay một lần nữa, xin công nhiên ca ngợi một
việc làm tâm huyết.
Thơ Vũ Hữu Định lần này gồm
80 bài – chắc là còn thiếu – là một tập thơ hay, tài hoa, trong sáng, đáp ứng
được sở thích đông đảo người đọc ; một tác phẩm có giá trị cao về mặt tư
tưởng, tình cảm, nghệ thuật, lưu lại tấm lòng của nhà thơ quá cố, ghi tạc niềm
thủy chung của bằng hữu, trong một hoàn cảnh lịch sử, xã hội nghiệt ngã và bạc
bẽo.
*
Thơ Vũ Hữu Định quay chung
quanh các chủ đề : quê nhà, tình bạn, tình yêu trong khát vọng một không
gian rộng rãi. Trước khi đi vào các đề tài này, chúng ta nên biết qua thân thế
tác giả, qua những bài thơ tâm sự, chủ yếu là „Bài thơ năm bốn mươi“, làm dịp
tết Tân Dậu, 1981, trước khi qua đời, thơ „kiểm điểm“ vô hình trung thành thơ
tuyệt mệnh, như bài „Di chúc“ của Nguyễn Khuyến :
Bốn mươi tuổi rồi đây
vợ năm con không no không đói
…
bốn mươi tuổi rồi
hai lăm năm uống đắng
(giỏi nghề rượu từ thuở mười lăm)
học hành thì lăng nhăng
thân tự lập thân từ năm bảy tuổi
không nhớ hết nghề đã trải
bán báo, đánh giày, ở đợ
đánh trống phòng trà, dạy học, làm thơ
phó giám đốc nuôi trẻ bơ vơ
còn cả chục nghề thôi không kể
ham đọc sách chẳng phải vì ham học
thần thánh trăm ông chẳng phục ông nào
ông nào cũng tốt
ông nào cũng tào lao
có lắm thánh nhân thì đời chỉ rối mù
nhiều triết học thêm tối mù đa sự
…
bốn mươi năm khoảng dăm lần tù… (tr. 86)
vợ năm con không no không đói
…
bốn mươi tuổi rồi
hai lăm năm uống đắng
(giỏi nghề rượu từ thuở mười lăm)
học hành thì lăng nhăng
thân tự lập thân từ năm bảy tuổi
không nhớ hết nghề đã trải
bán báo, đánh giày, ở đợ
đánh trống phòng trà, dạy học, làm thơ
phó giám đốc nuôi trẻ bơ vơ
còn cả chục nghề thôi không kể
ham đọc sách chẳng phải vì ham học
thần thánh trăm ông chẳng phục ông nào
ông nào cũng tốt
ông nào cũng tào lao
có lắm thánh nhân thì đời chỉ rối mù
nhiều triết học thêm tối mù đa sự
…
bốn mươi năm khoảng dăm lần tù… (tr. 86)
Trong bài „Ngựa hí đầu non“,
ta còn biết thêm :
Sinh nhằm tuổi Ngọ, đêm
vừa hết…
Mới hai tháng đã biết mùi bom đạn
Mới hai tháng đã biết mùi bom đạn
1942, thời chiến tranh
Nhật-Đồng minh. Lên bảy tuổi :
Đã theo mẹ đêm đêm qua xóm
xách đèn rao khoai sắn cầm hơi (tr. 67)
xách đèn rao khoai sắn cầm hơi (tr. 67)
Trong bài „Cảm ơn người vợ“,
1972, ta được biết anh cưới vợ khoảng 1965 :
Bảy năm tình chồng vợ
bảy năm em hẩm hiu
lần nào em sinh nở
ta cũng phải vắng nhà
đứa đầu lòng tù tội
đứa thứ hai, đi xa (tr. 129)
bảy năm em hẩm hiu
lần nào em sinh nở
ta cũng phải vắng nhà
đứa đầu lòng tù tội
đứa thứ hai, đi xa (tr. 129)
Chúng ta không biết rõ anh tù
tội vì việc gì, làm gì đến nỗi dăm lần tù. Theo chứng từ của bạn bè, Vũ Hữu
Định là người cởi mở, vui chuyện, ưa rượu, ưa bạn, đàn giỏi hát hay, nhẹ trách
nhiệm gia đình, vợ con đương nhiên là phải khó khăn. Và anh cũng thừa nhận điều
đó :
Năm đứa con như năm hạt
ngọc
Nếu không có em sao khỏi cát lầm
Còn anh thì cứ lông bông… (tr. 88)
Nếu không có em sao khỏi cát lầm
Còn anh thì cứ lông bông… (tr. 88)
Tháng 3/1973, nhà thơ Tường
Linh có bài „Gặp lại Vũ Hữu Định“, ghi nhận hoàn cảnh của anh :
Thì ra ngươi chửa hết gian
nan
Thôi hãy cầm như lửa thử vàng…
Thôi hãy cầm như lửa thử vàng…
Chúng ta đã chấm phá được đôi
nét chân dung Vũ Hữu Định. Chân dung ấy sẽ rõ nét hơn khi quần tụ bạn bè, trên
chiếu rượu :
Nợ nần chưa thoát nổi
càng nợ, càng hăng vay
thiếu cái danh, nhưng không thiếu bạn bè
đi đâu cũng có phần rượu tặng. (tr. 85)
càng nợ, càng hăng vay
thiếu cái danh, nhưng không thiếu bạn bè
đi đâu cũng có phần rượu tặng. (tr. 85)
Trong mọi tình cảm, có lẽ
tình bạn là mang nhiều âm sắc thời đại nhất. Đã xa rồi những „cố nhân“ trong
thơ Đường, thơ Tống. Xa rồi giọng u hoài, trầm mặc của Nguyễn Trãi :
Bạn bè đất Việt ai thăm
hỏi
nhờ nhắn : đời ta vẫn cỏ bồng
nhờ nhắn : đời ta vẫn cỏ bồng
Hay giọng băn khoăn, xa xăm
của Nguyễn Khuyến thăm hỏi bác Châu Cầu, lụt lội năm nay bác ở đâu, giọng nhẹ
nhàng, thơ mộng của Huy Cận thương bạn chiều hôm sầu gối tay. Cũng đã xa rồi
những „Tống biệt hành“, „Vọng nhân hành“ của Thâm Tâm. Tao loạn, thì đất nước
đã trăm lần tao loạn. Nhưng chiến cuộc 1960-1975 mang một sắc thái đặc biệt, và
tình bạn sinh tử thời này ngân vọng một âm hao riêng, trong chất bi phẫn nặng
phần phi lý :
Trên non may có tình bằng
hữu
tuổi trẻ đau chung một khúc ca
ôm nhau thức với vầng trăng lạnh
vượt lá tìm sao định hướng nhà.
tuổi trẻ đau chung một khúc ca
ôm nhau thức với vầng trăng lạnh
vượt lá tìm sao định hướng nhà.
Có những ngày đi trong núi
thẳm
tuổi trẻ nhìn nhau, nhớ xóm thương làng
thở chung một tiếng nghe sầu cháy
tâm sự chuyền nhau điếu thuốc quan san
tuổi trẻ nhìn nhau, nhớ xóm thương làng
thở chung một tiếng nghe sầu cháy
tâm sự chuyền nhau điếu thuốc quan san
Cám ơn điêu đứng rừng sinh
tử
cạm bẫy người giăng để giết người
tuổi trẻ gần nhau trong gió lửa
giữ dùm nhau những tiếng chim cười (tr. 45)
cạm bẫy người giăng để giết người
tuổi trẻ gần nhau trong gió lửa
giữ dùm nhau những tiếng chim cười (tr. 45)
Bài „Chuyện người tuổi trẻ“
này, Vũ Hữu Định làm tặng nhà thơ Trần Dzạ Lữ, cùng một bài khác, mang rõ nét
thời sự :
Ngày Huế giải phóng
mày lang thang trong Nam
…
xa nhau càng nghĩ càng thương
thằng bạn thơ cuộc đời bầm dập
trốn lính, đi lính, rồi thì học tập
thương ơi câu nói „ở răng cho vừa đời“
…
nghe nói mày về quê đi bán bánh mì
vợ giặt mướn cho nhà thương đẻ
rồi nghe nói mày đi Nam trở lại
quê không dụng nổi đôi vợ chồng thơ
năm năm rồi mày sống xa quê
ôi cái làng quê Nam Phổ Hạ
thời chiến tranh mày quay quắt mong về (tr. 42)
mày lang thang trong Nam
…
xa nhau càng nghĩ càng thương
thằng bạn thơ cuộc đời bầm dập
trốn lính, đi lính, rồi thì học tập
thương ơi câu nói „ở răng cho vừa đời“
…
nghe nói mày về quê đi bán bánh mì
vợ giặt mướn cho nhà thương đẻ
rồi nghe nói mày đi Nam trở lại
quê không dụng nổi đôi vợ chồng thơ
năm năm rồi mày sống xa quê
ôi cái làng quê Nam Phổ Hạ
thời chiến tranh mày quay quắt mong về (tr. 42)
Hòa bình, thống nhất mà lại
làm nhiều người xa quê – và xa nhau – hơn là chiến tranh, chia cắt. Bài thơ này
làm khoảng 1980, bắt đầu bằng câu ca dao quen thuộc :
Gió đưa cây cải về trời
Rau răm ở lại chịu lời đắng cay
Rau răm ở lại chịu lời đắng cay
Ai hiểu sao thì hiểu.
Tình bạn, bao giờ cũng mang
tính cách thời đại, xã hội. Tình yêu có không gian rộng rãi hơn : tiếng
sét ái tình có thể giáng xuống bất cứ lúc nào và nơi nào. Tình bạn có thuở, có
thì, có nơi, có chốn. Yêu nhau rồi mới ngồi vào chiếu ; ngồi vào chiếu rồi
mới ra tình bạn. Bá Nha, Tử Kỳ cùng chiếu nhạc buổi Xuân Thu. Quản Trọng, Bảo
Thúc cùng miếng đỉnh chung thời Chiến Quốc. Montaigne và La Boétie cùng phất áo
giữa tòa án Bordeaux.
Nguyễn Khuyến, Dương Khuê áo mão đồng khoa… Vũ Hữu Định, Trần Dzạ Lữ, Trần Hoài
Thư, cùng nhiều bạn khác cùng gối đầu trên báng súng, tai nghe trực thăng, đại
bác… Cơn binh lửa tạo ra và củng cố tình bạn. Cái quý là tình bạn còn lại sau
cơn binh tàn, lửa tắt. Và quý hơn nữa, trong tình bạn ấy, sau khi chắt lọc
tiếng trực thăng đại bác nhiễu nhương, còn lại tiếng đập cùng nhịp của những
trái tim. Ấy là tình người. Tình yêu là định mệnh cá nhân ; tình bạn là cơ
duyên thời đại. Cao quý thay lòng chung thủy giữa những tâm hồn tự nguyện,
trong tình yêu cũng như tình bạn.
Vũ Hữu Định, người đã ra đi,
tình còn ở lại.
*
Nói đến thời đại là nói đến
quê hương. Vũ Hữu Định tha thiết với quê hương, dù anh sinh một nơi, sống một
nơi và giữa hai nơi là những bước chân lang bạt kỳ hồ. Anh khẳng định :
Mùa lúa năm nay đòng đòng
đã trổ
anh yêu mùa yêu đất yêu quê (tr. 29)
anh yêu mùa yêu đất yêu quê (tr. 29)
Nhưng quê anh nơi nào ?
Những con lạch anh chèo
ghe thăm lúa
thả lưới giăng câu, mười mấy năm ròng
…
Cau với bưởi bây giờ thơm hương trái
em bên vườn da thịt có thơm không ? (tr. 28)
thả lưới giăng câu, mười mấy năm ròng
…
Cau với bưởi bây giờ thơm hương trái
em bên vườn da thịt có thơm không ? (tr. 28)
Vũ Hữu Định là „kẻ chợ“, dân
thành phố ; ở đây anh thác lời „kẻ quê“, một nông dân mười mấy năm cày sâu
cuốc bẫm, nhà mới thay tranh mong đón em về… Lời không thật nhưng tình thì thật.
Tình quê nơi Vũ Hữu Định,
quyện với tình bạn và tình yêu là một khát vọng hạnh phúc trong nguồn cội. Quê
hương của Vũ Hữu Định không chính xác như trong những „bức tranh quê“ mà ta đã
gặp, những đồng chiêm trũng miền Vụ Bản, Nam Định của Nguyễn Bính, hoặc thôn
làng sơn cước Hà Tĩnh trong thơ Huy Cận, hay làng Trung Phước dưới chân núi
Quảng Nam trong thơ Bùi Giáng, Tạ Ký, Tường Linh. Nơi Vũ Hữu Định, quê hương
làm tâm cảnh tượng trưng cho một giấc mơ. Giấc mơ Trở Về của đứa con biết mình
lạc hướng, vì cơn lốc của lịch sử đã đành, nhưng cũng có phần cố tình lạc
hướng. Phải hiểu như thế mới giải quyết được nhiều mâu thuẫn trong thơ anh.
Và hiểu rằng nỗi nhớ nhà
thường xuyên ám ảnh anh, không giống với nỗi nhớ bất ngờ, bất chợt trong thơ
Nguyễn Bắc Sơn đồng lứa :
Qua cầu Sông Lũy nhìn
quanh quất
Nước đỏ cầu đen chợt nhớ nhà
Nước đỏ cầu đen chợt nhớ nhà
Tình quê, đề tài cho nhiều
bài thơ, có thể là nền thơ Vũ Hữu Định :
Mây còn bay nên đời còn
mộng
tuổi trẻ ra đi sao lại nhớ nhà
ơi người tuổi trẻ sầu trong mắt
đêm trên rừng mộng gởi quê xa.
tuổi trẻ ra đi sao lại nhớ nhà
ơi người tuổi trẻ sầu trong mắt
đêm trên rừng mộng gởi quê xa.
quê xa ta có em và mẹ,
nhớ ao bèo xanh bông tím thiết tha
nhớ người con gái bên hàng xóm
chiều thả thuyền vớt mộng nở hoa… (tr. 44)
nhớ ao bèo xanh bông tím thiết tha
nhớ người con gái bên hàng xóm
chiều thả thuyền vớt mộng nở hoa… (tr. 44)
Cảnh mơ hồ nhưng tình tha
thiết. Quê xa đây là mộng tưởng. Vũ Hữu Định không được hạnh phúc có một làng
chính xác để ca ngợi như Huy Cận, Bùi Giáng. Nhưng anh chẳng quan tâm đến điều đó :
Nghĩ ra thì ở đâu cũng vậy
ta vẫn là ta khinh bạc đắng cay.
có lẽ ta là thằng bất sá
cớ sao ở đâu rồi cũng bằng lòng
thả trôi cái sống cho đời dạt
mẹ buồn ta tóc trắng lưng cong (tr. 76)
ta vẫn là ta khinh bạc đắng cay.
có lẽ ta là thằng bất sá
cớ sao ở đâu rồi cũng bằng lòng
thả trôi cái sống cho đời dạt
mẹ buồn ta tóc trắng lưng cong (tr. 76)
Quê hương, nơi Vũ Hữu Định là
niềm u hoài khôn nguôi, hướng về cõi hạnh phúc đã mất hay chưa đến, trong nghĩa
„quê hương và lưu đày“ trong Kinh Thánh, hay Albert Camus.
U hoài bốc men cho những vần
bay bướm :
Hoa dại ven đường gửi lại
các em
Tiếng giã gạo gửi cho người mất ngủ
Trăng mười bốn gởi tâm hồn thiếu nữ
Trăng mười lăm gởi những kẻ yêu nhau
Tiếng giã gạo gửi cho người mất ngủ
Trăng mười bốn gởi tâm hồn thiếu nữ
Trăng mười lăm gởi những kẻ yêu nhau
*
Tình sôi nổi, thiết tha nhất
trong đời người có lẽ là tình yêu. Thơ tình yêu là lối thơ dễ làm và khó hay
nhất. Một là vì đề tài lâu đời trở thành khuôn sáo, hai là người làm thơ tình
khi thành thật thì chủ quan, đắc ý, tự nghĩ thơ mình là hay, hóa ra dễ dãi,
trong khi người đọc bên ngoài, cho rằng lẩm cẩm. Thơ tình ngày nay, muốn thành
công, phải giàu lượng trí tuệ và chất nghệ thuật ; nhưng thơ hoa mỹ lại
mất nét thành thực đơn sơ. Mà tình yêu chính là cảm xúc đơn sơ.
Thơ tình Vũ Hữu Định gây cảm
xúc vì chỗ tha thiết mà tự nhiên ấy :
Anh đang sống thiếu một
phần thân thể
sống thiếu em nên anh thở không đều
thèm ngực trần, môi ngọt với tay yêu
đã trói chặt hồn trăm năm lãng tử
…
đã quen đau nên thấy được mặn mà
của tội lỗi mà anh kêu hạnh phúc
ôi vết chém đã qua thời đau nhức
đâm da non để thành sẹo muôn đời
anh thở đều để sống em ơi (tr. 31)
sống thiếu em nên anh thở không đều
thèm ngực trần, môi ngọt với tay yêu
đã trói chặt hồn trăm năm lãng tử
…
đã quen đau nên thấy được mặn mà
của tội lỗi mà anh kêu hạnh phúc
ôi vết chém đã qua thời đau nhức
đâm da non để thành sẹo muôn đời
anh thở đều để sống em ơi (tr. 31)
Hơi thở rạo rực đã phả vào
bài „Tiếng dội của sương chiều“, 5 chữ nhẹ nhàng nhưng da diết, trong sáng mà
hàm súc - một bài lý tưởng để phổ nhạc (câu này viết nhắn gửi Phạm Duy) :
Anh nằm đâu, ngồi đây
ngó nước nguồn reo vỡ
nước nguồn chảy bao năm
đá núi mòn dấu nhớ
anh nằm đây, ngồi đây
một mình anh vẫn thở
mười năm trong trắc trở
anh thở khác ngày xưa
nghe dội tiếng rừng mưa
nghe vang lời suối nhớ
…
anh nằm nghe lay động
đau của những nhánh cành
anh ngồi trong lá xanh
trên những hồn lá chết
tay anh nắm tha thiết
những chiếc lá còn tươi
thả xuống suối mà chơi
trôi đi còn tiếng dội… (tr. 33)
ngó nước nguồn reo vỡ
nước nguồn chảy bao năm
đá núi mòn dấu nhớ
anh nằm đây, ngồi đây
một mình anh vẫn thở
mười năm trong trắc trở
anh thở khác ngày xưa
nghe dội tiếng rừng mưa
nghe vang lời suối nhớ
…
anh nằm nghe lay động
đau của những nhánh cành
anh ngồi trong lá xanh
trên những hồn lá chết
tay anh nắm tha thiết
những chiếc lá còn tươi
thả xuống suối mà chơi
trôi đi còn tiếng dội… (tr. 33)
Nguồn thơ róc rách tuôn tuôn
tự nhiên, u uẩn trong veo, thắm tươi đau đáu, trầm lặng ngân vang. Một bài thơ
tình hiện đại, rõ nét nếu ta so sánh với „Tình quê“ đồng dạng của Hàn Mạc Tử,
nửa thế kỷ trước. Đâu đó, trong Thân phận làm Người, André Malraux đã định
nghĩa tình yêu là „cái phần mình thay đổi ở người kia“, nghe sâu sắc, nhưng
trừu tượng. Vũ Hữu Định nói anh thở khác ngày xưa có cường điệu nhưng cụ thể,
và xúc động. Thể ngũ ngôn ngắn hơi, ít để lại tác phẩm hay. Bài „Tiếng dội của
sương chiều“ là một tác phẩm toàn bích.
Cùng một hơi thở - hơi thơ ấy
còn có bài „Rừng hương mật“ đắm đuối. Cảm hứng tuôn tràn một mạch,ào ạt, sung
mãn mà âm trầm, tao nhã. Thao thao tình cảm, thao thiết ưu tư :
Anh đang sống - đang thở
đều rất lạ
Thở yêu em yêu đau đớn của đời
Anh cảm được phút của mùa đang đổi
Giây của sông dừng lại đợi chiều trôi
Ở đâu đó rừng của Thu ảm đạm
Uống chút hương hoa của suối mà say
Mây của nghìn năm mây vẫn là mây
Nhưng một buổi lạ như vừa mới có
…
Một ngày nào mặt trời kia rét lạnh
Máu đỏ trùng dương một lần chết cuối cùng
Giấc lạnh vang lời gió nhắn với rừng
Anh hối hả trở về mau cho kịp (tr. 82)
Thở yêu em yêu đau đớn của đời
Anh cảm được phút của mùa đang đổi
Giây của sông dừng lại đợi chiều trôi
Ở đâu đó rừng của Thu ảm đạm
Uống chút hương hoa của suối mà say
Mây của nghìn năm mây vẫn là mây
Nhưng một buổi lạ như vừa mới có
…
Một ngày nào mặt trời kia rét lạnh
Máu đỏ trùng dương một lần chết cuối cùng
Giấc lạnh vang lời gió nhắn với rừng
Anh hối hả trở về mau cho kịp (tr. 82)
Nhịp thơ dập dồn, hình ảnh
điệp điệp, ý tứ trùng trùng, tuôn tuôn từ một hồn ứ chứa bao nhiêu tình rừng
thẳm. Do đó mà thơ tình Vũ Hữu Định ngày nay còn gây hào hứng.
Thơ tình, chứ không huê tình
kiểu „áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc“. Thơ tình xưa nay thường khệ nệ đèo thêm
phần thuyết lý, dạy đời : thơ Pháp từ Ronsard đến Aragon, thơ
Việt từ Nguyễn Trãi „đầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng“ đến Xuân Diệu „vội vàng
lên với chứ“. Thơ Vũ Hữu Định mang sắc phơi phới, hồn nhiên, đớn đau mà vẫn tin
đời - có lẽ do niềm tin ở trời đất, mà anh diễn đạt rất mãnh liệt trong bài tứ
tuyệt :
Sướng quá, nâng ly, khà
một tiếng
Mừng rằng sắc núi vẫn màu xanh
Đám mây bay thấp ngang nhà cỏ
Hương rượu nồng hơn mọi thứ tình (tr. 6)
Mừng rằng sắc núi vẫn màu xanh
Đám mây bay thấp ngang nhà cỏ
Hương rượu nồng hơn mọi thứ tình (tr. 6)
Tâm giới hào sảng trước sắc
giới ưu ái như trong đoạn thơ trên, được định hình trong một thi giới bao la,
biển rộng trời cao. Thơ Vũ Hữu Định ít có giới hạn chật hẹp, nếu Pleiku phố xá
không xa thì cũng được nấn rộng bằng sương mù, cây xanh, núi cao - và nhất là
có em !
Nơi Vũ Hữu Định tình yêu,
tình bạn, tình quê, quyện vào niềm nhớ đất thương trời mêng mang mênh mang mênh
mang.
*
Hình ảnh tạo tính nhất quán
cho tập thơ, xuyên suốt, tiếp dẫn các bài thơ, tự rừng núi đến thôn quê, ao
bèo, thửa ruộng, lũy tre, mái nhà, là con chim.
Một mặt chim là tri âm, chia
sẻ tâm sự và ước mơ :
Có lẽ con chim rừng bữa nọ
Hát với anh là chia sẻ ngọn nguồn (tr. 74)
Hát với anh là chia sẻ ngọn nguồn (tr. 74)
Chim là một ẩn dụ đa hiệu.
Hình ảnh thị giác, nó là không gian gần mà xa, cảm nhận thính giác, tiếng chim
là thời gian dội vào tim, có khi hẹn hò hoan lạc thủy chung :
Con chim bỏ đi có bận quay
về
Cất tiếng hát chào niềm vui của gió (tr. 108)
Cất tiếng hát chào niềm vui của gió (tr. 108)
Có khi nhắc thân phận hiện
thực chơ vơ :
Con chim lạ lùng năm nọ
của tôi ơi
Hóa mấy kiếp mà sao tôi vẫn vậy (tr. 110)
Hóa mấy kiếp mà sao tôi vẫn vậy (tr. 110)
*
Thơ Vũ Hữu Định là điển hình
cho thơ trữ tình hiện đại. Nó không gai góc, thách thức ; ngược lại, nó
kết thân, đằm thắm, quen thuộc. Lay động người đọc bằng tình cảm trong sáng và
thiết tha, bằng nét tài hoa vô tội.
Đây là đoạn cuối trong bài
thơ „Kiểm điểm“, Vũ Hữu Định làm 1981, trước khi vĩnh biệt trần gian :
Ta đang nhớ thuở sông dài
núi rộng
đường thênh thang của một gã giang hồ
ta đang thèm đi để học làm thơ
chờ ta đến xin nhớ phần rượu tặng (tr. 89)
đường thênh thang của một gã giang hồ
ta đang thèm đi để học làm thơ
chờ ta đến xin nhớ phần rượu tặng (tr. 89)
Câu thơ tuyệt mệnh thu gọn
không gian, cuộc đời, tâm tình, hoài bão văn chương và những khát vọng chưa
nguôi của Vũ Hữu Định.
Trên chiếu rượu vui ít buồn
nhiều hôm nay, bạn bè, trong và ngoài nước, luôn luôn giữ phần rượu tặng, cho
Định.
Định ơi,
Orléans, ngày 25/2/2006
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét